Bong bóng Bong bóng dot-com

Do những yếu tố này, nhiều người hào hứng đầu tư vào một công ty dot-com bất kỳ ở mức giá bất kỳ, đặc biệt nếu nó có những tiền tố liên quan đến Internet (như "e-" hay "i-") hoặc một hậu tố ".com" trong tên gọi. Vốn mạo hiểm không khó để huy động. Các ngân hàng đầu tư, rất được lời từ những phát hành công khai lần đầu (IPO), làm dấy lên suy đoán và khuyến khích đầu tư vào công nghệ.[7] Sự kết hợp giữa giá cổ phiếu tăng nhanh trong khu vực bốn của nền kinh tế và niềm tin rằng các công ty sẽ sinh lời trong tương lai tạo thành một môi trường khiến nhiều nhà đầu tư bỏ qua những chỉ số truyền thống (như tỉ số P/E) và chỉ đặt niềm tin vào tiến bộ công nghệ, dẫn đến một bong bóng thị trường chứng khoán.[5] Giữa năm 1995 và 2000, chỉ số tổng hợp Nasdaq tăng 400%. Tỉ số P/E của nó đạt 200, vượt qua đỉnh là 80 của chỉ số Nikkei 225 của Nhật Bản thời bong bóng bất động sản Nhật Bản năm 1991.[5] Năm 1999, giá trị cổ phần của Qualcomm tăng 2.619%, trong khi 12 cổ phiếu vốn hóa lớp khác đều tăng hơn 1.000% về giá trị, và bảy cổ phiếu khác tăng 900%. Mặc dù chỉ số tổng hợp Nasdaq Composite tăng 85,6% và chỉ số S&P 500 tăng 19,5% năm 1999, số cổ phiếu giảm nhiều hơn số tăng do các nhà đầu tư bán cổ phần trong những công ty phát triển chậm để đầu tư vào cổ phiếu Internet.[8]

Một lượng lớn đầu tư cá nhân xảy ra trong thời điểm này và câu chuyện về những người bỏ việc để buôn bán trên thị trường tài chính khá phổ biến.[9] Giới truyền thông cũng không bỏ lỡ cơ hội này; một bài viết trong tờ The Wall Street Journal khuyên nhà đầu tư "tái suy nghĩ" về "ý tưởng kỳ lạ" về lợi nhuận, còn CNBC báo cáo về thị trường chứng khoán với sự hồi hộp như những chương trình thể thao.[5][10]

Ở thời kỳ đỉnh của bong bóng, một công ty dot-com có thể trở thành một công ty đại chúng qua IPO và huy động một số tiền đáng kể ngay cả khi chưa có lợi nhuận, hoặc trong một số trường hợp không có cả doanh thu thực tế nào. Những người với quyền mua cổ phiếu cho nhân viên lập tức trở thành triệu phú khi công ty thực hiện IPO; tuy nhiên, đa số nhân viên bị cấm bán cổ phần ngay lập tức.[7] Những doanh nhân thành công nhất, như là Mark Cuban, bán cổ phẩn hoặc đưa vào phòng vệ giá để giữ lời.

Khuynh hướng chi tiêu của công ty dot-com

Hầu hết công ty dot-com có lỗ vận hành ròng do dành nhiều cho quảng cáo để khuếch đại hiệu ứng mạng lưới để xây dựng thị phần nhanh nhất có thể, sử dụng khẩu hiệu như "get big fast" và "get large or get lost". Những công ty này cung cấp dịch vụ hoặc sản phẩm miễn phí hoặc ở mức giá thấp để tạo nhận thức thương hiệu tốt nhằm tăng giá trong tương lai.[11][12]

Tinh thần "tăng trưởng trên lợi nhuận" và ánh hào quang của "nền kinh tế mới" bất bại khiến một số công ty chi tiêu hoang phí cho cơ sở doanh nghiệp và kỳ nghỉ thượng lưu cho nhân viên. Khi ra đời một sản phẩm hay trang web mới, công ty thường sẽ tổ chức một bữa liên hoan đắt tiền, gọi là bữa tiệc dot com.[13][14]

Bong bóng viễn thông

Bong bóng trong ngành viễn thông được gọi là "sự thăng trầm lớn nhất và nhanh nhất lịch sử".[15]

Một phần vì lòng tham và sự lạc quan quá mức, đặc biệt là về sự tăng trưởng lưu lượng thông tin bởi Internet, trong năm năm sau khi Đạo luật Viễn thông 1996 có hiệu lực, các công ty viễn thông đầu tư hơn 500 tỷ đô la Mỹ, hầu hết là bằng nợ, vào việc lắp đặt cáp quang, công tắc, và các mạng không dây.[6] Ở nhiều khu vực, như là Hành lang Công nghệ Dulles tại Virginia, chính phủ tài trợ cơ sở hạ tầng viễn thông và tạo môi trường và luật có lợi cho các công ty mở rộng.[16] Cung tăng nhanh, vượt quá cầu.[6] Tháng 4 năm 2000, đấu giá phổ cho 3G tại Anh, dẫn đầu bởi Bộ trưởng Tài chính Gordon Brown, đã thu được 22,5 tỷ bảng Anh.[17] Tại Đức, tháng 8 năm 2000, các cuộc đấu giá thu được 30 tỷ bảng.[18][19] Một phiên đấu giá phổ tại Hoa Kỳ năm 1999 phải tổ chức lại khi người thắng cuộc không thể chi trả số tiền cược 4 tỷ đô la. Phiên tái đấu thu được 10% số tiền đấu giá ban đầu.[20][21] Khi tài chính khó cân đối trong lúc bong bóng vỡ, tỉ lệ nợ cao của những công ty này dẫn đến phá sản.[22] Những nhà đầu tư trái phiếu chỉ thu về khoảng hơn 20% khoản đầu tư ban đầu.[23] Tuy nhiên, một số giám đốc viễn thông bán tháo cổ phần trước khi thị trường chứng khoán sụp đổ, như Philip Anschutz, thu về 1,9 tỷ USD, Joseph Nacchio, thu về 248 triệu USD, và Gary Winnick, bán số cổ phiếu trị giá 748 triệu USD.[24]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Bong bóng dot-com http://content.time.com/time/magazine/article/0,91... http://content.time.com/time/magazine/article/0,91... http://www.nsf.gov/od/lpa/news/03/fsnsf_internet.h... //doi.org/10.1177%2F1476127016629880 http://news.bbc.co.uk/1/hi/business/727831.stm https://www.bloomberg.com/news/articles/2002-08-04... https://www.businessinsider.com/heres-why-the-dot-... https://www.businessinsider.com/history-of-the-dot... https://money.cnn.com/2000/08/17/europe/german_umt... https://www.economist.com/leaders/2002/07/18/the-g...